Vào thời điểm cuộc tổng tiến công nổi dậy năm 1975 của quân và dân Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đã làm một việc phi nhân tính, nhân quyền chưa từng có trong lịch sử đó là thực hiện Chiến dịch di tản trẻ em (Operation Babylift) với mục
tiêu là đưa khoảng 70 ngàn trẻ em khỏi Việt Nam phục vụ cho âm mưu hậu chiến sau này. Chương trình này đã gây ra một vụ tai nạn lớn nhất trong lịch sử hàng không tại Việt Nam, làm chết hơn 100 em nhỏ.
Giáo sư Nguyễn Văn Hàm, nguyên nghị sĩ Hạ viện chính phủ Sài Gòn, trong cuốn hồi ký của mình (Hồi ký “Ông nghị sỹ”, được đăng trên website Haylentieng.vn …Kèm công văn số 1388 đề ngày 2.4.1975 có dấu và chữ ký của Bác sĩ Phan Vặn Đán) đã cung cấp một số chi tiết liên quan đến chiến dịch di tản ồ ạt, kể cả trẻ em cho những mục tiêu chính trị thâm độc, phản nhân đạo:
Thời điểm những ngày đầu tháng 4/1975, khi Đà Nẵng thất thủ, ông Hàm gặp Albert Francis là nhân vật quan trọng của CIA kiêm Tổng lãnh sự Đà Nẵng và được Francis trao cho một tài liệu của phía Mỹ có liên quan đến chiến dịch Babylift
Ông Hàm trích dẫn bức thư của Phó Thủ tướng, bác sĩ Phan Quang Đán, Quốc vụ khanh đặc trách Xã hội - gởi Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa, để xin đưa trẻ em Việt mồ côi sang Mỹ với mục đích:
“Sẽ gây thêm xúc động trên khắp thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, rất có lợi cho Việt Nam Cộng Hòa… Đại sứ Hoa Kỳ cũng can thiệp trực tiếp với tôi để số cô nhi trên được xuất ngoại tập thể…
“Việc xuất ngoại tập thể này, thêm vào việc hàng triệu đồng bào nạn nhân chiến cuộc lìa bỏ những vùng Cộng sản chiếm đóng, sẽ giúp xoay chuyển dư luận dân chúng Hoa Kỳ, sẽ được các hãng Truyền thanh và Truyền hình cùng báo chí Hoa Kỳ mục kích, tường thuật, do đó có ảnh hưởng rất lớn lao …”
======
Ngày 4/4/1975, một chiếc máy bay vận tải C-5A bay đến Tân Sơn Nhất để chuyển cho quân đội Sài Gòn vũ khí. Theo kế hoạch đã định, ở chiều bay về, máy bay này mang theo 300 người trong đó có nhân viên sứ quán Mỹ và nhiều trẻ nhỏ Việt Nam để mở đầu cho một chiến dịch Babylift.
Chiếc máy bay cất cánh được hơn 1 giờ thì bắt đầu bốc cháy sau tiếng nổ to ở phía sau. Đúng theo thiết kế, chiếc máy bay này chỉ có thể chở hơn 100 người nhưng nó đã chở tới 300 người. Do đó, mặt nạ ô xy thiếu trầm trọng. Phi hành đoàn phải quay đầu lại sân bay Tân Sơn Nhất nhưng không kịp. Khi còn cách Sài Gòn khoảng trên 10 km, chiếc máy bay bắt đầu rơi và vỡ tan tành. Sau vụ nổ, chỉ còn 170 người lớn và trẻ em sống sót với nhiều thương tích.
Tuy nhiên, bi kịch C-5A không làm hoãn chiến dịch Babylift. Các tài liệu phương Tây như "Operation babylift", "The Legacy of Operation Babylift" cho biết: Từ ngày 4/4 đến 26/4/1975, chiến dịch Babylift đã mang 3.300 trẻ em Việt Nam đến Mỹ, Canada, châu Âu và Úc…
Bọc ngoài bằng những danh nghĩa nhân đạo nhưng thực tế, chiến dịch Babylift là một âm mưu chính trị đê hèn của Nhà Trắng cùng các quan chức chính quyền Sài Gòn khi chế độ tay sai của họ đã đến cơn hấp hối.
Cuốn hồi ký của ông Hàm cũng cho biết thêm: “Để đủ túc số mà tuyên truyền, chẳng gì đáng ngạc nhiên khi, trong chuyến đầu tiên, người ta bốc cả những trẻ con ở ngoài các trại cô nhi. Một người bạn cùng quê, cùng tuổi với tôi, bấy giờ gia đình đang ở Quy Nhơn, có đứa con gái mười tuổi, đi học bán trú một trường Đạo, một hôm không thấy về nhà. Đăng báo, nhờ đài tìm trẻ thất lạc vô hiệu, coi như mất tích luôn”.
Ngay lúc khởi đầu chiến dịch này, mục đích chính trị khuất tất của nó đã bị các cô nhi viện phát giác và tố cáo đồng thời họ nêu quyết tâm sẽ giữ các trẻ em, không để người ta mang ra nước ngoài. Vẫn theo tài liệu của ông Hàm, vào ngày 6/4/1975, một bức thư có con dấu của cô nhi viện Ngọc Ninh (Phan Rang), Nhất Chi Mai (Lâm Đồng) và Biên Hòa gửi Quốc hội, nhân dân Hoa Kỳ, Hội đồng Thập tự Quốc tế, Cơ quan bảo trợ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc… tố giác: “ Chúng tôi đau đớn mà tố giác rằng trong khi đời sống của bốn ngàn cô nhi đang bình lặng tại các cơ sở nghĩa dưỡng toàn quốc, thì Chính phủ Sài Gòn do sự khuyến khích của Tòa Đại sứ Mỹ đã bất ngờ đưa hết số cô nhi trên về Sài Gòn để chờ lên máy bay rởi bỏ quê hương. Chúng tôi cũng gay gắt lên án các Hội Nghĩa Dưỡng quốc tế tại Việt Nam đã cấu kết chặt chẽ với âm mưu trên nhằm ý đồ chính trị, bội phản lại chủ trương nhân đạo nhân chánh một cách bỉ ổi… Chúng tôi long trọng xác nhận: Quyết tâm bảo vệ cô nhi Việt Nam đến cùng. Không bao giờ chấp nhận xuất cảng cô nhi cho mưu đồ chính trị tàn nhẫn. Số cô nhi còn lại tại các cô nhi viện, chúng tôi thà chết chứ không để chính quyền bắt mang đi”.
Có lẽ nhờ đó mà ý định “xuất cảng” 70.000 cô nhi Việt Nam ra nước ngoài của đã không thực hiện được theo như mục đích đề ra từ đầu, trong đó có việc xây dựng đội quân "phục quốc" gồm toàn những cỗ máy thù hận, giết chóc vì không biết quê hương nguồn gốc của mình.
Dù thế, với 3.300 trẻ em đã bị mang đi, trong đó có nhiều trẻ em vốn vẫn có cha mẹ, đã gây ra nhiều cảnh biệt ly cho các gia đình, gây ra nỗi dằn vặt ám ảnh cho những người không thể tìm lại gốc gác, để lại những hệ lụy xã hội mãi mãi về sau.
=====
Nhân chứng Bert Ballard, một trong những nhân chứng đã nói với những người cùng cảnh bị đánh cắp cuộc đời ra khỏi Việt Nam rằng “đây là cuộc đời mà chúng ta được người ta trao cho” và đưa ra lời khuyên: “Chiến dịch Không vận ấy đã gây ra sự giận dữ ở khắp nơi. Bạn không thể lại gần tất cả những người có trách nhiệm để nói rằng: “Xin chào, ông đã đánh cắp cuộc đời tôi. Ông phải xin lỗi tôi”. Hàng nghìn mảnh đời đã bị đánh cắp, để rồi nó đã thay đổi mãi mãi, không hẳn là tốt hơn hay xấu hơn, nhưng nhất định, đã không theo cách mà nó (lẽ ra) sẽ diễn ra."
Các điều tra về chiến dịch này đã tiến hành kéo dài tới tận những năm 90 nhưng cho đến nay nhiều vấn đề vẫn bị chính phủ Mỹ giấu kín, và vẫn cho rằng đây là một chiến dịch "nhân đạo"???
Bà Miriam Vieni, một nhà nghiên cứu Mỹ nói về những ý kiến đối lập nhau trong việc Operation Babylift đưa trẻ em người Việt sang Mỹ:
“Một số người cho rằng đưa trẻ em ra khỏi quốc gia nơi các em sinh sống là sự vi phạm quyền thiêng liêng của con người khi các em chưa đủ trí khôn để chọn lựa và quyết định. Một số người lại nghĩ những trẻ mồ côi người Việt phải được chính người Việt giải quyết. Trên TV, một số khác không ủng hộ việc chọn con nuôi khác nguồn gốc chủng tộc, họ còn đưa ra trường hợp tại sao không chiếu cố đến một số trẻ mồ côi người Mỹ gốc Phi còn đang chờ các gia đình Mỹ nhận nuôi”.
Ngô Mạnh Hùng